Với vị trí địa lý cũng như hệ thực vật tự nhiên phong phú, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia giàu tiềm năng về năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng sinh khối (NLSK). Tuy nhiên có một thực tế, như các dạng năng lượng tái tạo khác, việc phát triển năng lượng tái tạo lại đang gặp rất nhiều khó khăn. Tiềm năng sinh khối từ hàng trăm mét khối gỗ củi, hàng chục triệu tấn rơm rạ... vẫn chưa được tận dụng để làm năng lượng sinh khối.
Vẫn là dạng tiềm năng
Sinh khối là các phế phẩm từ nông nghiệp (rơm rạ, bã mía, vỏ, xơ bắp...), phế phẩm lâm nghiệp (lá khô, vụn gỗ…), giấy vụn, mêtan từ các bãi chôn lấp, trạm xử lý nước thải, phân từ các trại chăn nuôi gia súc và gia cầm. Nhiên liệu sinh khối có thể ở dạng rắn, lỏng, khí… được đốt để phóng thích năng lượng. Sinh khối, đặc biệt là gỗ, than gỗ - cung cấp phần năng lượng đáng kể trên thế giới. Ít nhất một nửa dân số thế giới dựa trên nguồn năng lượng chính từ sinh khối. Con người đã sử dụng chúng để sưởi ấm và nấu ăn cách đây hàng ngàn năm.
Sinh khối cũng có thể chuyển thành dạng nhiên liệu lỏng như metanol, etanol dùng trong các động cơ đốt trong; hay thành dạng khí sinh học (biogas) ứng dụng cho nhu cầu năng lượng ở quy mô gia đình.
Thông tin tại Hội thảo quốc tế với chủ đề “Năng lượng sinh khối Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” mới đây, ông Nguyễn Văn Vy - Phó chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA) cho hay, tiềm năng NLSK của Việt Nam vô cùng phong phú, trữ lượng lớn. Cụ thể: Tiềm năng sinh khối từ gỗ củi vào khoảng 10,6 triệu tấn dầu quy đổi năm 2010, 14,6 triệu tấn vào năm 2030 và 14 triệu tấn vào năm 20150; phế thải từ nông nghiệp vào khoảng 16,8 triệu tấn năm 2010, 20,6 triệu tấn vào năm 2030 và 26,3 triệu tấn vào năm 2050; từ rác thải đô thị vào khoảng 0,64 triệu tấn vào năm 2010, 1,5 triệu tấn vào năm 2030 và 2,5 triệu tấn vào năm 2050...
Sản xuất than bánh sinh khối
Nói như vậy để thấy rằng, tiềm năng năng NLSK của Việt Nam là rất lớn và nếu tận dụng được nguồn năng lượng này sẽ góp phần quan trọng giải quyết bài toán đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Cùng với đó, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, việc phát triển được năng NLSK sẽ không chỉ giúp tận dụng được kho dự trữ sinh học vô cùng phong phú của Việt Nam mà còn cải thiện sinh kế của người nông dân hiện vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu dân số, đa phần tập trung ở vùng sâu, vùng xa.
Ngoài ra, phát triển năng NLSK còn có thể giúp cải thiện chi phí, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp thuộc các ngành: năng lượng, nông nghiệp, lâm nghiệp, biển; nghiên cứu, đào tạo, sáng chế… Trong đó, cung cấp sản phẩm, thiết bị, máy móc, công nghệ, dịch vụ năng lưong sinh khối là một trong số các hướng đi phù hợp với xu thế phát triển kinh tế, xã hội chính trị hiện nay, tạo ra lợi nhuận lớn cho doanh nghiệp, nhất là nguồn cung có đồng đều trên cả nước, phù hợp nhu cầu cho các loại dự án lớn nhỏ.
Đặc biệt, theo ông Phạm Trọng Thực - Vụ trưởng Vụ Năng lượng tái tạo (Tổng cục Năng lượng, Bộ Công Thương), phát triển năng NLSK không chỉ là vấn đề năng lượng mà còn là vấn đề xử lý chất thải gây ảnh hưởng đến môi trường hiện nay và trong tương lai. Hiện Hà Nội và Hồ Chí Minh mỗi ngày thải trên 7.000 tấn rác mỗi ngày, nếu phát triển năng NLSK tại Việt Nam thì vấn đề môi trường sẽ có cơ hội được giải quyết dứt điểm, góp phần vào việc phát triển năng lượng bền vững của Việt Nam.
Được nhiều cái lợi như vậy nhưng theo ông Trần Viết Ngãi - Chủ tịch VEA, chất thải nông nghiệp tính riêng ở đồng bằng sông Cửu Long đã hàng chục triệu tấn mỗi năm, chưa kể hàng trăm héc-ta rừng cho hàng trăm mét khối củi, gỗ hằng năm, NLSK khổng lồ ấy chưa được tận dụng làm năng lượng tái tạo xanh - sạch…
“Việc khai thác nguồn năng NLSK chưa tương xứng với tiềm năng, mặc dù, Chính phủ Việt Nam đã đặt các mục tiêu phát triển điện sinh khối, cơ chế giá điện sinh khối cũng đã được ban hành. Chúng ta mới chỉ quan tâm nhất là sử dụng năng NLSK cho phát điện, còn những ưu điểm và công dụng khác như chế tạo xăng sinh học, tận dụng phế thải làm biomass… vẫn chưa được nghiên cứu và áp dụng” - ông Ngãi nhấn mạnh.
Đâu là giải pháp?
Là một nước nông nghiệp, lại có hệ thực vật đa dạng, Việt Nam được đánh giá là rất giàu tiềm năng để phát triển năng NLSK. Nhưng như đã đề cập ở trên, sau 2 thập niên triển khai, dường như, năng NLSK ở Việt Nam vẫn đang ở nơi... bắt đầu. Lý giải điều này, ông Ngãi cho rằng chính sự thiếu thốn cơ sở hạ tầng, thiếu kiến thức chuyên môn, sự nghèo nàn về kinh nghiệm thực tế trong quá trình quản lý và vận hành bộ máy hoạt động, sự hạn chế của các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực về công nghệ và tài chính... là những nguyên nhân có thể kể ra khiến công nghệ phát triển năng NLSK bị “chậm trễ” so với mong muốn. Và nếu không có những quy định, chế tài đủ mạnh, Việt Nam sẽ khó đạt mục tiêu về phát triển năng NLSK, qua đó hoàn thành mục tiêu đưa tỷ lệ điện từ năng lượng tái tạo đạt 4,5% vào năm 2020 và 6% vào năm 2030 như Quy hoạch điện VII đã đặt ra.
Còn theo đại diện Trung tâm Hỗ trợ phát triển năng lượng Việt Nam, trong khi việc phát triển năng lượng tái tạo nói chung và năng NLSK nói riêng đang gặp khó thì vấn đề môi trường lại đang bị xem nhẹ, thậm chí là “thứ bị rút đi” theo cái gọi là đơn giản hóa thủ tục đầu tư. Cụ thể: Trong các tài liệu mà một nhà đầu tư phải nộp cho chính quyền để xin chủ trương đầu tư không có tài liệu nào về môi trường. Trong các vấn đề mà chính quyền thẩm định thì có đánh giá tác động kinh tế, tác động xã hội nhưng không có tác động môi trường. Các vấn đề về môi trường bị đẩy xuống sau khi dự án đã được quyết định về địa điểm, quy mô, công nghệ.
Chính vì vậy, đại diện Trung tâm Hỗ trợ phát triển năng lượng Việt Nam đưa ra quan điểm: Việt Nam muốn phát triển năng NLSK cần phải có những chính sách, quy định cụ thể để giữ gìn môi trường, cần phải có những văn bản quy phạm pháp luật ở mức cao (luật, nghị định) để khuyến khích nhà đầu tư phát triển năng lượng tái tạo, phải đưa ra những chiến lược, quy hoạch cụ thể, ngắn hạn và dài hạn để phát triển nguồn năng NLSK ở cấp quốc gia...
Được biết, theo Quyết định 2068 về Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo Việt Nam, mục tiêu phát triển năng NLSK được đề ra như sau: Ưu tiên sử dụng năng NLSK cho sản xuất điện, khí sinh học, sinh khối viên sử dụng trực tiếp làm nhiên liệu và nhiên liệu sinh học lỏng. Nâng tỷ lệ sử dụng phế thải của các cây công nghiệp, nông nghiệp cho mục đích năng lượng từ khoảng 45% năm 2015 lên 50% năm 2020, khoảng 60% năm 2030 và 70% năm 2050...; nâng tỷ lệ sử dụng chất thải chăn nuôi cho mục đích năng lượng (khi sinh học) từ khoảng 4%/năm lên khoảng 10%/năm vào năm 2020; 50% vào năm 2030 và 70% vào năm 2050... Tổng năng NLSK được sử dụng tăng 14,5 triệu tấn dầu quy đổi giai đoạn 2010-2015 lên 16,2 triệu tấn vào 2020; 32 triệu tấn vào năm 2030 và 62,5 triệu tấn vào năm 2050.
Source: http://petrotimes.vn/